5 Điểm khác biệt của HR Canada (Phần 1)
Ngày: 04/10/2018 lúc 07:49AM
*Bài viết được Phi&P dịch từ Tạp chí HR Magazine – Tạp chí nhân sự toàn cầu
Cư dân Mỹ và Canada, những người sống tại phía bắc vĩ tuyến 49 được xem là hàng xóm láng giềng của nhau. Họ có rất nhiều điểm chung dù cho lãnh đạo của họ gần như đối lập nhau về tư tưởng chính trị. Ở nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội, Canada được cho là lạc hậu hơn so với Mỹ, tuy nhiên các chính sách nhân sự của Canada thực sự tiến bộ hơn nhiều so với người hàng xóm của mình.
Mất cân bằng giữa công việc và cuộc sống là vấn đề khá nghiêm trọng ở Mỹ trong nhiều năm qua, các báo cáo hằng năm liên tục báo động về sự kiệt sức của người lao động. Và hiện nay, vấn đề này đang trở thành một mối quan tâm lớn với chính phủ Canada.
Cứ 10 người Canada thì có 7 người cảm thấy hài lòng với mức độ cân bằng giữa công việc và cuộc sống gia đình, nhưng thật tiếc đó đã là kết quả thống kê của một thập kỷ trước. Theo chính phủ Canada, trong vòng 10 năm gần đây, tỷ lệ này ngày càng có chiều hướng giảm rõ rệt và có nguy cơ giảm xuống dưới mức một nửa. Như vậy, cân bằng công việc và cuộc sống trở thành vấn đề đáng báo động và mối quan tâm của những nhà lãnh đạo. Liệu HR ở Canada có nối bước theo người bạn của mình bên kia vĩ tuyến 49.
Đó là lý do vì sao Thủ tướng Canada Justin Trudeau nhấn mạnh vấn đề cân bằng công việc và cuộc sống cần gắn liền với những quy định pháp luật, đồng thời đây cũng là nguyên nhân mà các công ty ở biên giới phía bắc lại nhấn mạnh các chính sách thân thiện đối với nhân viên.
Mặc dù thật sự có nhiều điểm tương đồng, nhưng nếu quan sát thật kỹ, những điểm khác biệt lại nổi lên một cách rõ ràng hơn. Vào những ngày Lễ Tạ Ơn tháng 11, người Mỹ dành thời gian bên những bàn tiệc, xem bóng đá hoặc mua sắm trong ngày Black Friday. Trong khi đó, người Canada ăn mừng kỳ nghỉ của họ vào tháng 10 với những món ăn nhẹ nhàng, những bữa tiệc nhỏ, dạo phố và cùng nhau nhìn ngắm lá phong trước khi mùa đông đến.
Văn hóa công việc của Canada rất đặc biệt, người lao động Canada có nhiều quyền lợi và được bảo vệ tốt hơn trong luật pháp. Để kiểm soát tốt những vấn đề không nằm trong dự tính, các doanh nghiệp hiện tại và những nhà đầu tư có ý định chuyển hướng đầu tư vào khu vực phía bắc cần hiểu rõ 5 điểm khác biệt chính trong thực tiễn nhân sự giữa hai nước.
Chấm dứt việc làm
Người sử dụng lao động ở Canada không giống với người sử dụng lao động ở Mỹ. HR Ở Canada không sử dụng “At-will Employment – Hợp đồng lao động tự nguyện”, đây cũng là một trong những khác biệt lớn nhất giữa hai nước.
Ở Mỹ, người sử dụng lao động có quyền sa thải một nhân viên vì bất kỳ lý do nào và không cần thông báo trước cho họ miễn là lý do đó không vi phạm những yếu tố được pháp luật bảo vệ như tuổi tác, giới tính, hoặc chủng tộc. Tại Canada, mọi mối quan hệ việc làm được điều chỉnh bởi một thỏa thuận cấp quyền cho nhân viên về việc chấm dứt hợp đồng. Lisa Stam, nhà sáng lập và điều hành Spring Law – một công ty luật về việc làm tư vấn cho các công ty và chuyên gia HR nêu ví dụ: Người sử dụng lao động ở Canada luôn phải thông báo trước một khoản thời gian và thanh toán các khoảng đền bù cho nhân viên nếu họ muốn chấm dứt hợp đồng..
Ngoại lệ chính (điểm khác biệt) chỉ nằm ở lý do chấm dứt hợp đồng. Thông thường nếu muốn chấm dứt hợp đồng. Lý do có thể được chấp nhận phải là nhân viên đó vi phạm quy định của công ty một cách nghiêm trọng hoặc hành động của nhân viên đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của công ty. Tuy nhiên, điều này rất hiếm và khó xảy ra ở Canada.
Thay vì phải sa thải nhân viên, các nhà quản lý ở Canada có xu hướng dựa trên kỷ luật để giúp nhân viên của mình khắc phục các sai sót và tiến bộ hơn. “Sa thải” phải luôn luôn là giải pháp cuối cùng đối với các công ty ở Canada, và khi nhân viên rời khỏi công ty, các khoản đền bù là tương đối lớn hơn so với ở Mỹ.
Cissy Pau, chuyên gia tư vấn tại Clear HR Consulting ở Vancouver, British Columbia cho biết, Luật pháp Canada quy định như nhau cho tất cả các tỉnh, ngoại trừ Quebec nơi có những quy định đặc biệt. Mỗi khu vực sẽ tuân thủ những đạo luật lao động tiêu chuẩn, đạo luật quy định quyền lợi và trách nhiệm của cả người lao động lẫn người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn nhân quyền, quy tắc quan hệ lao động, luật an toàn và sức khỏe nghề nghiệp.
Các đạo luật ở British Columbia yêu cầu người sử dụng lao động thông báo việc chấm dứt hợp đồng trước bằng văn bản và bồi thường dựa trên thời gian phục vụ của nhân viên. Không yêu cầu bồi thường nếu việc chấm dứt hợp đồng được thông báo trước một khoảng thời gian bằng số tuần lương mà nhân viên đủ điều kiện để nhận.
Không giống với các khu vực khác của Canada, ở Quebec, nhân viên đã làm việc từ hai năm trở lên mà không có sự gián đoạn trong thời gian làm việc và công việc có tính bảo mật cao thì họ chỉ có thể rời đi khi có lý do chính đáng, hoặc do sự thay đổi về kinh tế hoặc công nghệ.
- Lợi ích của cha mẹ
- Ở Canada, những nhân viên đã có con nhỏ sẽ được ưu tiên nghỉ phép nhiều hơn so với ở Mỹ. “Đây có thể là một thách thức hoặc ít nhất cần phải có một sự chuẩn bị chu toàn và kỹ lưỡng khi soạn thảo các chính sách nhân sự ở khu vực biên giới hai nước.
- Một sự khác biệt đáng kể nữa trong chế độ thai sản, nuôi người thai sản ở hai nước là vai trò của chính phủ. Lisa Durante, người sáng lập và tư vấn chiến lược tại Lisa Durante International, một nhà tư vấn cho các bà mẹ làm việc tại Toronto cho biết: “Ở Mỹ, trợ cấp thai sản của nhân viên phụ thuộc vào người chủ doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Trong khi đó ở Canada, người lao động tìm đến chính phủ để yêu cầu được nhận khoản trợ cấp này.”
Luật lao động Mỹ cho phép nhân viên được nghỉ tối đa 12 tuần không lương trong 1 năm với các lý do liên quan đến vấn đề gia đình và sức khỏe. Tuy nhiên, ngày càng nhiều lao động Mỹ đặc biệt là lao động thuộc thế hệ Y, những người bắt đầu có gia đình và con nhỏ với những nhu cầu cao hơn về sự linh hoạt trong thời gian nghỉ thai sản. Đó là lý do vì sao lãnh đạo các công ty ở Mỹ từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn đều đang hướng đến xây dựng những chính sách lợi ích tốt hơn cho người lao động trong việc nghỉ thai sản bao gồm kéo dài thời gian nghỉ và hỗ trợ tài chính. Lisa Durante cho biết “Cùng với các quyền lợi về sức khỏe và y tế, các chính sách nghỉ phép của những người làm cha mẹ là một yếu tố đặc biệt quan trọng để thu hút và giữ chân nhân tài”
Ở Canada, những người đảm nhận công việc chăm sóc con cái thường mất một năm nghỉ phép sau khi sinh. Họ sẽ được nhận lương trong một khoảng thời gian nhất định thông qua một chương trình bảo hiểm việc làm do chính phủ liên bang quản lý. Trong thời gian này, công việc của những người làm cha mẹ không những được bảo vệ mà họ còn được nhận những khoản đền bù và trợ cấp.
Các bà mẹ sinh con được nghỉ thai sản từ 15 đến 17 tuần. Cả bố và mẹ tính cả những cặp vợ chồng đồng giới, khác giới, bố mẹ nuôi có thể có tổng cộng 27 đến 35 tuần nghỉ và sẽ được phân chia tùy thuộc vào lựa chọn của họ. Trong cả hai trường hợp, cha mẹ đủ điều kiện có thể nhận được 55% thu nhập của họ không quá 547 đô la Canada mỗi tuần trong khoảng 12 tháng.
Quebec cung cấp cho các bậc cha mẹ một kế hoạch tài chính lên đến $900 mỗi tuần khi so sánh với các khu vực kinh tế khác. Đây cũng là tỉnh duy nhất cho phép người chồng có thêm 5 tuần nghỉ để chăm sóc vợ sinh con miễn không vượt quá 35 giờ mỗi tuần.
Tính đến tháng 12 năm 2017, công dân Canada có con nhỏ đủ điều kiện nhận trợ cấp sẽ được chi trả trong thời gian 18 tháng thay vì 12 tháng sau khi sinh con hoặc nhận con nuôi. Nếu họ muốn nghỉ nhiều hơn thì các khoản thanh toán hàng tháng mà họ nhận được sẽ thấp hơn
Một bước tiến xa hơn nữa của chính phủ Canada dựa trên mô hình của Quebec, Đảng Tự Do đứng đầu bởi Trudeau đã giới thiệu Bảo hiểm Lao động cho Cha mẹ để tăng mức bảo hiểm mà cha mẹ có thể nhận được lên 40 tuần. Tuy nhiên, việc nhận toàn bộ lương cho thời gian nghỉ chỉ được cung cấp khi người thứ hai trong cặp vợ chồng (thường là người chồng) mất thêm 5 tuần nghỉ để chăm sóc gia đình.
Đề xuất này của chính phủ Canada có hiệu lực vào tháng 6 năm 2019, là một phần của chiến lược “Use it or lose it”. Họ hy vọng rằng sẽ có nhiều người cha dành thời gian nghỉ để chăm sóc gia đình và không bị mất đi các quyền lợi chính đáng.
(Còn tiếp)